Phú Thọ là một tỉnh nằm ở phía tây bắc của vùng đồng bằng sông Hồng, cách Hà Nội khoảng 100km. Đây là một vùng đất có lịch sử lâu đời với những địa danh đã tồn tại hàng ngàn năm mà vẫn giữ được dấu ấn nguyên sơ. Phú Thọ có nhiều điểm du lịch đẹp và hấp dẫn, mang đậm bản sắc quốc gia. Một số điểm đến nổi bật của Phú Thọ là Khu di tích lịch sử Đền Hùng, Ao Châu, Khu bảo tồn thiên nhiên Xuân Sơn, Suối khoáng nóng Thanh Thủy,...
Nằm trong khu vực giao lưu giữa vùng Đông Bắc, đồng bằng sông Hồng và vùng Tây Bắc, Phú Thọ có vị trí địa lý mang ý nghĩa là trung tâm tiểu vùng Tây - Đông - Bắc; cách trung tâm Hà Nội khoảng 80km về phía Bắc, cách sân bay Quốc tế Nội Bài khoảng 60km. Với vị trí “ngã ba sông” - điểm giao nhau của sông Hồng, sông Đà và sông Lô, là cửa ngõ phía Tây của Thủ đô Hà Nội, Phú Thọ là đầu mối trung chuyển, giao lưu kinh tế giữa các tỉnh vùng đồng bằng Bắc Bộ với các tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam và hai tỉnh Quảng Tây, Vân Nam, Trung Quốc. Nằm trong vành đai của các tuyến trục giao thông quan trọng: đường bộ có Quốc lộ 2, Cao tốc Nội Bài - Lào Cai, đường Hồ Chí Minh, đường sắt có tuyến đường xuyên Á, đường sông chạy từ Trung Quốc qua các tỉnh phía Tây vùng Đông Bắc đều quy tụ về Phú Thọ rồi mới tỏa đi Hà Nội, Hải Phòng và các khu vực khác. Với vị trí địa lý này, Phú Thọ hội tụ các điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế, giao thương với các vùng trong nước và quốc tế.
Phú Thọ là vùng đất cổ, đất phát tích của dân tộc Việt Nam, nơi có bề dày truyền thống lịch sử và hàng nghìn năm văn hiến từ khi Vua Hùng dựng nước Văn Lang. Nằm ở trung tâm của nền văn minh Sông Hồng, Phú Thọ là đất cội nguồn, đất của thế dựng nước và giữ nước, đất của di tích lịch sử, đất của các danh thắng, của các sản vật thiên nhiên độc đáo.
Đền Hùng - nơi thờ tự các Vua Hùng trở thành nơi thờ cúng Tổ tiên, nơi tụ hội và thể hiện sức mạnh, ý chí đại đoàn kết của dân tộc Việt Nam ngày nay. Trên mảnh đất này còn lưu giữ 1.372 di tích lịch sử văn hóa, trong đó có 01 di tích quốc gia đặc biệt, 73 di tích quốc gia, 219 di tích cấp tỉnh và hàng trăm lễ hội dân gian đặc sắc như lễ hội đền Hùng, lễ hội đền Mẫu Âu Cơ, lễ hội Trò Trám, lễ hội rước Chúa Gái, lễ rước kiệu Hùng Lô, hội Phết Hiền Quan… cùng các làn điệu dân ca Xoan, Ghẹo.
Đền Hùng là tên gọi khái quát của Khu di tích lịch sử Đền Hùng - quần thể đền chùa thờ phụng các Vua Hùng và tôn thất của nhà vua trên núi Nghĩa Lĩnh, gắn với Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng được tổ chức tại địa điểm đó hàng năm vào ngày 10 tháng 3 âm lịch. Hiện nay, theo các tài liệu khoa học đã công bố đa số đều thống nhất nền móng kiến trúc đền Hùng bắt đầu được xây dựng từ thời vua Đinh Tiên Hoàng trị vì. Đến thời Hậu Lê (thế kỷ 15) được xây dựng hoàn chỉnh theo quy mô như hiện tại.
Đền Quốc tổ Lạc Long Quân được xây dựng tại đồi Sim, cách núi Nghĩa Lĩnh khoảng 1km, nơi có vị trí đắc địa, có thế “sơn chầu thuỷ tụ”. Đồi Sim có hình thế giống một con rùa lớn, hai bên có Thanh Long, Bạch Hổ, phía trước là hồ Hóc Trai và sông Hồng chảy xuôi về biển. Ngôi đền tọa lạc trên lưng rùa biểu hiện sự linh thiêng huyền diệu.
Nằm trên đường Trần Phú, bên bờ hồ công viên Văn Lang - trung tâm của thành phố Việt Trì - Bảo tàng Hùng Vương được ví như một “cuốn sử bằng hiện vật” thu hút đông đảo du khách thập phương đến tham quan, tìm hiểu và khám phá các giá trị độc đáo, riêng có về lịch sử, văn hóa của vùng đất Tổ cội nguồn.
Với diện tích 100 ha, khu Du lịch Bến Gót được chia thành 2 phần ở bờ Bắc và bờ Nam sông Lô, trong đó phần lãnh thổ phía Bắc (thuộc phường Bến Gót) là chủ yếu. Khu du lịch có đặc trưng điển hình của vùng trung du Bắc Bộ, với địa hình nhấp nhô, phần đất phía Bắc có vị thế như một bán đảo quay về hướng Đông Nam, tạo nên hình ảnh về bến nước, dòng sông. Đặc biệt là sự gắn kết hài hoà giữa đồi núi, cây cối, sông nước tạo nên phong cảnh sơn thuỷ hữu tình, thích hợp để xây dựng khu du lịch nghỉ ngơi, thư giãn, vọng cảnh. Khu du lịch Bến Gót bao gồm những thành phần chủ yếu như: vui chơi giải trí, thể thao, nhà vườn, cắm trại, khách sạn, nhà nghỉ, câu cá, trại sáng tác, lầu bình thơ,… được tổ chức tạo thành trục chủ đạo đi từ cổng chính đến khu lầu tưởng niệm và vọng cảnh phía bờ sông, kết thúc là Lầu Bạch Hạc.
Lầu Bạch Hạc được xây dựng theo hướng vươn cao vừa tượng trưng cho đàn tế trời vừa là nơi du khách có thể ngắm cảnh xa xa, dưới tầng lầu có bia tưởng niệm 100 người con của Lạc Long Quân - Âu Cơ, giúp cho du khách hiểu rõ hơn nguồn gốc của đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Bên cạnh Lầu Bạch Hạc được tái dựng tảng đá lưu vết chân và hình dáng tiên ông phân định ngôi thứ, mở đầu cho sự hưng thịnh, đoàn kết, thương yêu, đùm bọc của đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Phần đất phía Nam chủ yếu dành cho các di tích lịch sử và thể thao nước truyền thống, một phần dành cho các nhà nghỉ nhỏ dưới dạng vườn nông thôn, vườn sinh thái…
Nằm trong địa phận của kinh đô Văn Lang xưa, đền Thiên Cổ uy nghiêm ngự trên một quả đồi nhỏ thuộc thôn Hương Lan, xã Trưng Vương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Đây là ngôi đền thờ vợ chồng thầy giáo Vũ Thê Lang, người thầy giáo đầu tiên của dân tộc đã có công dạy dỗ hai công chúa Tiên Dung - Ngọc Hoa con vua Hùng Vương thứ 18.
Tương truyền, thầy giáo Vũ Thê Lang quê ở Mộ Trạch, Hải Dương cùng vợ là bà Nguyễn Thị Thục, quê ở Đông Ngàn, Kinh Bắc lên kinh đô Văn Lang dạy học từ thời Hùng Vương thứ 18. Hai người tạ thế cùng một giờ, một ngày mồng 2 tháng 2 năm Quý Dậu (năm 228 trước Công nguyên). Đến nay phần mộ của hai vợ chồng thầy cô vẫn còn được nhân dân giữ gìn và bảo vệ cẩn thận ở trong ngôi đền. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, ngôi đền vẫn được người dân thôn Hương Lan, xã Trưng Vương hết lòng bảo vệ.
Khu di tích lịch sử văn hóa Quốc gia đền Tam Giang, chùa Đại Bi thuộc phường Bạch Hạc, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Ngôi đền nằm bên tả ngạn nơi hợp lưu của ba dòng sông: sông Hồng, sông Lô, sông Đà mà xưa nay nhân dân vẫn quen gọi là ngã ba Hạc. Đây là một thắng cảnh đẹp của vùng đất Tổ, thu hút đông đảo du khách đến tham quan và lễ bái.
Đền Tam Giang thờ nhân vật lịch sử huyền thoại thời Hùng Vương dựng nước là thần Thổ Lệnh, ông là thần làng – thần sông Bạch Hạc đã có công chu du thiên hạ tìm phương thuốc quý chữa trị tật bệnh cho muôn dân, khi mất lại linh ứng giúp cho các tướng lĩnh đánh giặc ngoại xâm giữ nước. Chùa Đại Bi, ngôi chùa cổ do Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật và cháu gái là công chúa Thiên Thụy xây dựng từ đời Trần (năm 1328) đã có gần 700 năm tuổi.
Hùng Lô xưa là vùng đất trù phú, có lịch sử phát triển lâu đời. Đình Hùng Lô là quần thể di tích có giá trị văn hóa, lịch sử nổi bật trên vùng Đất Tổ, niên đại khoảng hơn 300 năm. Trải qua bao thăng trầm lịch sử, đình vẫn bảo tồn được nguyên vẹn giá trị kiến trúc, văn hóa, lịch sử: Ngôi miếu cổ, tòa Đại đình, Long đình, nhà Tiền tế, lầu chuông, lầu trống, nhà thờ Phật, bệ thờ thần nông, nhà Văn chỉ và nhà Yến lão.
Đình Hùng Lô, thuộc làng cổ Hùng Lô, nằm dọc ven sông Lô, cách Đền Hùng chừng 10km về phía Đông. Đình Hùng Lô được công nhận di tích lịch sử cấp quốc gia năm 1990. Tương truyền, đây là vùng đất thiêng, nơi Vua Hùng từng nghỉ chân trong một lần đi du ngoạn. Về sau, dân lập miếu thờ, đến đời Lê Hy Tông (1697), đình được xây dựng, hướng về núi Nghĩa Lĩnh…
Đền Tiên Cát và Chùa Cát Tường nằm bên bờ sông Hồng thuộc khu phố Anh Dũng, phường Tiên Cát, thành phố Việt Trì. Đền Tiên thờ Mẫu Thần Long Hồng Đăng Ngạn- Hoàng Hậu nước Xích Quỷ, vợ vua Kinh Dương Vương, mẹ đẻ của Vua Lạc Long Quân. Người đã sát cánh cùng chồng trong buổi đầu dựng nước, trong việc dạy dỗ nhân dân và người đã được vua Kinh Dương Vương phong làm “Vi Cung Chính Khổn” thưởng cho cung Tiên Cát. Khi người mất nơi đây được chuyển thành Tiên Cát lăng được nhân dân trông nom gìn giữ suốt mấy nghìn năm.
Quần thể lộc vừng được công nhận là cây di sản nằm tại Gò Thờ, xã Chương Xá, huyện Cẩm Khê. Từ xa, quần thể lộc vừng như một chậu cây cảnh khổng lồ hay một khu rừng rậm rạp. Quần thể lộc vừng này có hơn 80 cây, nằm trên một quả gò chỉ rộng chừng 500m2, trên đầm Láng Chương, hay còn gọi là gò Vình. Rất ít tài liệu ghi chép chính xác số tuổi của quần thể lộc vừng này, nhưng nhiều người ước tính nó đã hơn 1.000 năm tuổi.
Nằm trên khu vực của thị trấn ấm Thượng, xã Yên Sơn. Đầm Ao Châu có diện tích mặt nước trên 300 ha nổi lên giữa một vùng đồi trung du, tạo nên 99 ngách ăn sâu vào một vùng đồi gò rộng lớn với diện tích trên 1000ha. Nước trong đầm luôn trong xanh và sạch, độ sâu của nước trung bình từ 8 đến 10m, chỗ sâu nhất là 15m. Những quả đồi đất nổi lên giữa đầm nước mênh mông được trồng các loại cây bản địa như chè, cọ đặc biệt là các đồi vải chín đỏ vải vào mùa hè hàng năm tạo nên bức tranh sơn thủy tuyệt đẹp. Vùng núi và đồi ven hồ là những rừng cây xanh tốt tạo nên một cảnh quan rất thơ mộng.
Đầm Ao Châu đã được quy hoạch để xây dựng thành một khu du lịch sinh thái với hệ thống các khách sạn sang trọng, các khu nghỉ dưỡng với các trò vui chơi giải trí như bơi thuyền, đua thuyền trên mặt đầm.
Đền nằm giữa một cánh đồng lúa bên dòng sông Thao thuộc xã Hiền Lương, huyện Hạ Hoà. Tương truyền trong số 50 người con theo mẹ Âu Cơ lên núi, người con cả dừng ở đất Phong Châu dựng kinh đô Văn Lang cai quản đất nước truyền ngôi được 18 đời, gọi là các vua Hùng. 49 người con theo mẹ tiếp tục ngược thượng nguồn sông Thao, đến vùng Hiền Lương thấy sơn thuỷ hữu tình, đất đai tươi tốt bèn hạ trại khai hoang lập ấp, dạy cho dân làng nghề trồng lúa, nuôi tằm…
Lễ chính đền Mẫu Âu Cơ vào ngày 7-1, kéo dài trong ba ngày, sau khi tế nữ xong mới đến lễ Mẫu dâng hương sớ. Trong dịp này trước sân đền và tại đình làng có nhiều trò chơi dân gian địa phương như: cướp cờ, đánh phết, hát ghẹo, hát xoan… Đặc biệt có tục làm bánh vôi từ bột gạo nếp và nước mía là đặc sản ngon nổi tiếng của vùng Hạ Hoà.
Ao Giời - Suối Tiên thuộc huyện Hạ Hòa, tỉnh Phú Thọ; hai bên đường tới Ao Giời - Suối Tiên có hàng trăm đỉnh núi lớn, nhỏ có độ cao trung bình từ 500 - 600m so với mặt biển. Với đỉnh cao 1.200m, núi Nả cao vượt lên sừng sững, trông thật hùng vĩ như điểm tựa của miền thượng vùng trung du rộng lớn, được phủ một màu xanh dày đặc của các loài cây nhiệt đới, chen chúc nhau tầng tầng, lớp lớp với khá nhiều loài cây quí hiếm như đinh, lim, gụ, vàng tâm… Trong rừng còn có các bầy khỉ, nai, hoẵng, lợn rừng, cầy hương…
Suối Tiên bắt nguồn từ trên núi Nả, chảy qua các khe đá, hình thành dải lụa trắng bạc, vắt ngang sườn núi, nổi bật giữa màu xanh mượt mà của núi rừng, lẫn vào màu xanh của mây trời, làm cho cảnh trí càng sinh động, kỳ ảo, cảnh tượng vừa gần gũi, vừa sâu thẳm, vừa rõ ràng, vừa huyền bí thơ mộng làm xao xuyến lòng người. Với chiều dài hơn 10km, lòng suối dày kín lớp sỏi đá và cát vàng làm cho nước suối được thanh lọc tinh khiết, trong vắt, lấp lánh ánh mặt trời phản chiếu. Đầu nguồn của con suối có Giếng Tiên, diện tích chừng 40m2, sâu đến hơn 10m. Từ đáy giếng, dòng nước phun lên mát lạnh, ngọt ngào tạo thành Suối Tiên. Suối Tiên quanh co chảy qua nhiều tầng, bậc tạo nên nhiều thác nước thẳng đứng. Suốt chiều dài con suối có tới 14 thác nước, trong đó có một số thác cao 20m, tựa những tấm màn the trắng xoá, che các hang, hốc đá phía trong.
Đầm Vân Hội có diện tích trên 200 ha, độ sâu của nước từ 7m đến 8m, chỗ sâu nhất đạt 20m. Đầm có hệ thống cung cấp và thoát nước mở nên luôn giữ mực nước ổn định, mùa mưa và mùa cạn nước chỉ chênh lệch nhau khoảng 1,3m. Nước trong Đầm rất trong và sạch. Xung quanh Đầm có hệ thống núi và đồi và rừng của các xã Quân Khê (Hạ Hòa), xã Vân Hội, xã Việt Cường (Văn Chấn, Yên Bái) vây bọc tạo nên cảnh quan thơ mộng. Trên mặt Đầm có khoảng 40 đảo, đảo lớn nhất có diện tích 10ha, còn lại là đảo nhỏ từ 0,5 đến 1 ha với các loại cây như: Cọ, chè, keo… tạo nên phong cảnh hữu tình. Đầm Vân Hội cách Đền Mẫu Âu Cơ (Hạ Hòa) 1km, cách Ao Giời - Suối Tiên 3km. Đầm Vân Hội được quy hoạch thành khu du lịch nghỉ dưỡng - vui chơi giải trí cao cấp.
Cách Hà Nội khoảng 120km, Vườn quốc gia Xuân Sơn rộng hơn 15.000ha, đứng thứ 12 trong số 15 vườn quốc gia lớn nhất Việt Nam. Vườn được ví là “lá phổi xanh,” là điểm du lịch hấp dẫn nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh, với độ che phủ rừng lên tới 84%, chất lượng các hệ sinh thái rừng ổn định và được bảo vệ tốt. Vườn được đánh giá là nơi có môi trường không khí, môi trường nước sạch sẽ, mát mẻ, nhiệt độ trung bình năm từ 22 - 23 độ C.
Đặc biệt, một ngày ở Xuân Sơn, thời tiết có nét đặc trưng của 4 mùa: buổi sáng mát mẻ của mùa Xuân, buổi trưa ấm áp của mùa Hè, buổi chiều hiu hiu như mùa Thu, buổi tối trời se lạnh đặc trưng của mùa Đông. Đây là lợi thế của vườn trong phát triển du lịch sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng.
Đây là ngôi làng cổ xưa nhất của người Dao Tiền, bản cuối cùng của Vườn Quốc gia Xuân Sơn. Do có loài gà chín cựa, một loài vật tưởng như chỉ có trong truyền thuyết Sơn Tinh Thủy Tinh mà bản Cỏi hiện nay được nhiều người biết tới. Từ một khu dân cư heo hút nằm sâu trong vùng lõi Vườn Quốc gia Xuân Sơn, nay bản Cỏi biến thành địa điểm thu hút được nhiều khách du lịch cũng như các thương lái đến thu mua loại gà này để tiêu thụ.
Phú Thọ đã từ lâu nổi tiếng là đất trồng chè, với diện tích trồng chè trên 12.000 ha và sản lượng chè búp tươi vô cùng lớn. Ai đã từng qua vùng đồi trung du Phú Thọ khu vực các huyện Tân Sơn, Thanh Sơn sẽ không thể nào quên những đồi chè xanh mơn mởn, trông như những mâm xôi tầng tầng, lớp lớp ngút ngàn tạo nên cảnh quan thiên nhiên kỳ thú. Đồi chè Long Cốc ở Tân Sơn được xếp vào một trong những đồi chè đẹp nhất Việt Nam.
Đèo Khế là ranh giới tự nhiên giữa 2 tỉnh Phú Thọ và Yên Bái. Từ Hà Nội qua địa phận xã Thu Cúc (Phú Thọ) đi thẳng tiếp là lên đến đèo Khế. Vượt qua đèo Khế sẽ sang tới địa phận của huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Trước đây, đèo Khế từng là “nỗi sợ hãi” đối với cánh tài xế và những người đi đường đêm. Sau khi được tu sửa lại, con đường đèo dài gần 30km không chỉ giúp giao thông thuận tiện mà còn trở thành điểm lui tới quen thuộc của dân mê phượt.
Thác Mây thuộc xã Hương Cần, nằm cách trung tâm huyện Thanh Sơn khoảng 25km. Trên đỉnh núi Hem có một hồ nước nhỏ, nước từ đó đổ xuống sườn núi tạo thành suối Hem và nhiều tầng thác liên hoàn kế tiếp nhau, gọi là thác Mây. Thác Mây gồm 13 thác nước lớn nhỏ, trong đó thác cao nhất là thác Thượng với nhiều cột nước tung bọt trắng xoá. Những ngày trong xanh, hoà cùng màu xanh của núi rừng và màu xanh của trời là những dòng thác như giải lụa mềm giữa trời. Nhiều thác nước lớn nhỏ đã tạo nên những cung bậc âm thanh khác nhau, có thác nước đổ rào rào, có thác nước chảy róc rách giống như những bản nhạc của thiên nhiên. Tới gần thác, không khí như dịu mát hẳn, khác biệt với không khí bên ngoài, du khách có thể đắm mình trong dòng nước suối trong mát sau khi khám phá bức tranh thiên nhiên tuyệt đẹp.
Thác Mơ thuộc xã Cự Thắng, cách trung tâm huyện 15km. Trước đây, thác có tên gọi khác là thác Vạn Mơ nhưng lâu dần người ta gọi thác là thác Mơ. Ngay từ tên gọi của thác đã tạo cho du khách hình dung được khung cảnh mộc mạc, mà nên thơ. Đường vào thác được bao bọc bởi màu xanh của núi rừng, các loại hoa dại hai bên đường, góp phần tạo nên vẻ đẹp hoang sơ cho khung cảnh nơi đây.
Thác Mơ có đến 9 tầng khác nhau, từ xa, đã nghe tiếng thác nước đổ rì rào như lời hát của các sơn nữ. Men theo con suối nhỏ để đến chân thác, du khách sẽ được đắm mình trong cảnh sắc thiên nhiên còn hoang sơ của đại ngàn. Thác được vây quanh bởi những ngọn núi xanh mát, hệ động thực vật nguyên sinh phong phú, đa dạng. Sau khi khám phá vẻ đẹp của thiên nhiên, du khách có thể nghỉ ngơi tại nhà sàn, thưởng thức các món ăn dân giã đặc sắc của đồng bào các dân tộc Thanh Sơn.
Khu du lịch nước khoáng nóng Thanh Thủy nằm trên địa phận các xã La Phù và Bảo Yên huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ, cách thành phố Việt Trì hơn 40km, giáp với Hà Nội, nằm bên tả sông Đà, đối diện với núi Ba Vì. Khu du lịch nước khoáng nóng Thanh Thủy là khu vực đắc địa sở hữu nguồn nước khoáng nóng cùng với các cảnh quan đẹp được coi là những tài nguyên vô giá của tự nhiên ban tặng cho Thanh Thủy để phát triển du lịch nghỉ dưỡng. Qua tài liệu nghiên cứu khoa học cho thấy, nước khoáng Thanh Thuỷ có nhiệt độ dao động trong khoảng từ 37ºC - 54ºC thuộc loại nước khoáng ấm - nóng. Trong nước khoáng có nhiều chất vi lượng như: Natri, Canxi, Magie, đặc biệt có hàm lượng chất Radon vừa phải để tạo nên một loại nước quý hiếm rất thích hợp cho việc tắm ngâm, phục hồi sức khoẻ và chữa bệnh.
Sau khi ngăn đập, hồ Thượng Long hay còn gọi (hồ Ly) trở thành một trong 10 hồ có trữ lượng nước lớn nhất tỉnh, hồ có khả năng tưới cho trên 500ha lúa và cung cấp nước sinh hoạt cho hàng ngàn người dân ở xã Thượng Long, Nga Hoàng, Hưng Long, Phúc Khánh, Đồng Thịnh và thị trấn Yên Lập. Đập ngăn nước đã tạo nên một hồ nước xanh như viên ngọc giữa núi rừng.
Hồ Ly được tạo từ hai khe nước là khe Ly và khe Chanh. Người dân địa phương đã lấy tên khe Ly đặt tên gọi cho hồ. Hồ Ly có vẻ đẹp non nước hữu tình mà thiên nhiên ưu đãi ban tặng cho nơi đây với cảnh đẹp yên bình thu hút nhiều bạn trẻ đến tham quan, chụp hình và trải nghiệm thú vị khi khám phá văn hóa dệt thổ cẩm, thưởng thức những đặc sản của bà con dân tộc người Dao, Mường tại địa phương.
Địa danh nổi tiếng mà hầu hết người dân khi nhắc tới Phú Thọ đều biết chính là di tích Đền Hùng, đây cũng là địa điểm thu hút khách tham quan chủ yếu khi tới Phú Thọ.
Lễ hội Giỗ Tổ Hùng Vương hàng năm được tổ chức vào ngày 10/3 (Âm lịch), đây là dịp phù hợp để đến Phú Thọ tham quan Đền Hùng. Tuy nhiên, một điều cần lưu ý là lượng khách du lịch đổ về đây trong những ngày Giỗ Tổ vô cùng lớn, nếu ở xa đến Phú Thọ, các bạn cần lưu ý đặt phòng trước thật sớm bởi càng sát ngày thì việc tìm phòng càng khó khăn hơn rất nhiều.
Nếu thích khám phá du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng ở Phú Thọ, các bạn không thể bỏ qua Vườn Quốc gia Xuân Sơn. Thời điểm thích hợp để đến với Xuân Sơn là khoảng từ tháng 4-8, lúc này chưa bước vào mùa mưa bão của miền Bắc, thời tiết oi nóng nên việc vào rừng khám phá sẽ rất tuyệt vời.
Nếu muốn đến tắm thư giãn tại khu suối khoáng nóng Thanh Thủy, các bạn hãy chọn thời điểm mà thời tiết hơi se lạnh (trước khi bước sang mùa đông miền Bắc, với những đợt rét buốt). Ngâm mình trong làn khoáng nóng vào thời điểm này sẽ là một trải nghiệm thú vị.
Cách Hà Nội không xa cùng sự kết nối của tuyến cao tốc Hà Nội - Lào Cai, đường đi Phú Thọ rất thuận tiện. Có 2 cách phổ biến đi từ Hà Nội đi Phú Thọ là phương tiện công cộng và phương tiện cá nhân:
Phương tiện công cộng: du khách có thể chọn xe khách, bắt tại bến xe Mỹ Đình. Song xe khách thường đông đúc nên bạn có thể đặt xe limousine.
Phương tiện cá nhân: Như ô tô, tuyến đường nhanh nhất là theo hướng Nội Bài, rồi lên cao tốc Hà Nội - Lào Cai. Hiện có nhiều điểm xuống tỉnh từ cao tốc. Nếu tới trung tâm TP Việt Trì, du khách xuống ở IC7. Xe máy và ô tô còn có thể đi trên đường quốc lộ 2, qua Phúc Yên, Vĩnh Yên tỉnh Vĩnh Phúc. Cung đường khác là quốc lộ 32 qua thị xã Sơn Tây.
Hiện nay Phú Thọ chưa có sân bay dân dụng, du khách ở những địa phương xa hơn bay tới Hà Nội rồi di chuyển đến Phú Thọ
Bánh tai: Bánh tai là một món bánh đặc sản cực kỳ phổ biến tại Phú Thọ, nhất là tại thị xã Phú Thọ. Bánh được làm từ bột gạo tẻ, thịt heo và một ít nguyên liệu phụ khác. Bánh có hình dáng nhìn giống như một cái tai màu trắng. Khi ăn, bạn sẽ cảm nhận được vỏ bánh dai mềm cùng nhân bánh đậm đà, thơm ngon.
Búp khoai kho: Búp khoai kho là một trong những món ăn truyền thống, dân dã mà nổi tiếng của Phú Thọ. Sau khi sơ chế sạch, búp khoai sẽ được kho rim cùng một ít gia vị và nguyên liệu phụ. Món ăn này không những hấp dẫn du khách bởi hương vị dân dã, thơm ngon mà còn bởi giá trị dinh dưỡng rất cao.
Rau sắn: Rau sắn chính là phần lá ở ngọn của cây sắn, miền nam còn gọi là cây khoai mì. Khi vào mùa, người dân Phú Thọ sẽ chọn những lá lớn vừa phải, không quá già hoặc quá non để ngắt mang về chế biến món ăn. Rau sắn có thể dùng để nấu canh, xào hoặc muối chua đều rất ngon, hương vị thanh mát mà dân dã khiến người ăn khó mà quên được.
Bánh tẻ mật: Bánh tẻ mật là một món bánh đặc sản của Phú Thọ được nhiều người ưa thích. Khác với những loại bánh tẻ thông thường, bánh tẻ mật Phú Thọ không có nhân, bột bánh được pha từ bột gạo tẻ, mật mía và nước. Khi ăn, bạn chấm bánh vào mật mía, vừa mềm dẻo vừa ngọt dịu lại mang đậm mùi thơm của mật mía.
Thịt chua Thanh Sơn: Thịt chua được biết đến là một món ăn bình dị của người Mường ở khu vực Thanh Sơn. Hai thành phần chính của món ăn chính là thịt lợn và thính rang xay mịn. Nhưng sự hấp dẫn của món ăn nằm ở chỗ kết hợp tài tình với các loại gia vị đặc thù cùng cách chế biến riêng biệt, tạo nên hương vị độc đáo khó cưỡng.Trám om cá: Trám là một loại quả đặc trưng của vùng Phú Thọ, với hai loại phổ biến là trám chua và trám đen. Thời gian thu hoạch trám thường rơi vào tầm cuối tháng 5, đầu tháng 6 âm lịch, tùy theo công dụng mà người ta chế biến phù hợp.
Xáo chuối: Cái tên tiếp theo góp mặt trong danh sách đặc sản Phú Thọ chắc chắn đó là xáo chuối Lâm Thao. Một món ăn đơn sơ, mộc mạc nhưng rất được yêu thích tại nơi đây. Cách làm món xáo chuối không có gì quá cầu kỳ nhưng quan trọng là phải tuyển chọn đúng nguyên liệu như: loại chuối tiêu đặc trưng, chuối không được quá xanh hay quá già, tiếp đến là xương sườn lợn, tiết lợn, riềng, nước tương. Khi thưởng thức, món xáo chuối ăn nóng là ngon nhất. Xáo chuối có vị bùi, thơm mềm, kết hợp với hương đặc trưng của riềng lan tỏa khắp nơi, ăn hoài mà không ngán.
Cọ ỏm: Cọ ỏm là món ăn đặc sắc, được chế biến từ loài cây đặc trưng của miền trung du Phú Thọ. Quả cọ có vị bùi bùi, thơm ngậy và cũng là đặc sản hấp dẫn, gây thích thú cho nhiều du khách khi du lịch Phú Thọ.
Mùi thơm hấp dẫn, vị đậm ngọt, béo ngậy và màu vàng sánh của tương Dục Mỹ khiến cho những ai từng thưởng thức sẽ không quên được hương vị tương quê đặc biệt nơi đây
Những nguyên liệu để tạo nên tương Dục Mỹ là gạo nếp, đậu tương, muối và nước. Tuy quy trình làm tương nơi đây không có gì khác so với quy trình làm tương truyền thống: phơi mốc, ủ mốc, lên men…nhưng có lẽ chính do nguồn nước ngọt được lấy từ độ sâu hàng trăm mét dưới lớp đá ong dày đã tạo nên mùi vị đặc biệt cho loại tương này.
Bưởi Đoan Hùng là giống bưởi đặc sản nổi tiếng tại Phú Thọ và khắp miền Bắc. Loại trái cây đặc biệt này được trồng tại vùng đất Đoan Hùng, xưa còn gọi là “bưởi Phủ Đoan”, là loại cây trồng lâu năm, có quả hình cầu dẹt, nặng chưa đầy 1 kg, khi quả chín màu vàng sáng, tép nhỏ, vỏ héo, mềm, đặc trưng mọng nước, ngọt và mát. Món ẩm thực đất Tổ này còn quý ở chỗ có thể bảo quản được vài tháng đến nửa năm, ngay cả khi vỏ đã héo khô, khi bổ ra ăn vẫn ngọt, thơm mát, vẫn giữ nguyên hương vị.
Tại Đoan Hùng hiện nay vẫn còn giữ được hai giống bưởi quý đó là: bưởi Chí Đám và bưởi Bằng Luân. Cách đây khoảng 300 năm bưởi Bằng Luân được trồng nhiều nhất ở hai xã Bằng Luân và xã Quế Lâm của huyện Đoan Hùng. Bưởi Chí Đám rất ưa đất phù sa, loại này có nguồn gốc từ việc gây giống cây bưởi của nhà lão nông có tên là ông Sửu cách đây trên 200 năm, nên bưởi còn có tên gọi là bưởi Sửu.
Hồng Gia Thanh có nguồn gốc ở Tiên Cát, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, được dân di thực về trồng tại các vườn hộ gia đình thuộc xã Gia Thanh, huyện Phù Ninh ít nhất từ 50 – 70 năm trở lại đây, có những cây đã gần 70 tuổi. Hiện trên địa bàn huyện Phù Ninh đang có khoảng 50ha diện tích trồng Hồng mang lại thu nhập cho người dân.
Đặc điểm của Hồng Gia Thanh là quả không có hạt, hình thoi cao thành chứ không tròn, tai vểnh lên, khi chín quả có màu vàng nhạt, ăn vị giòn, ngọt. hồng ngâm còn chứa nhiều vitamin tốt cho sức khỏe, là một món quà hấp dẫn cho những người con xa quê và du khách thập phương ghé thăm Phú Thọ được thưởng thức đặc sản vùng Đất Tổ.
Mỗi vùng đất với điều kiện thổ nhưỡng khác nhau nên đã đem lại cho sản phẩm chè Phú Thọ nhiều hương vị đặc trưng riêng. Đến nay, sản phẩm chè của Phú Thọ đã được xuất khẩu sang nhiều nước trên thế giới và được đông đảo người tiêu dùng trong nước biết tới.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, mì gạo Hùng Lô vẫn lưu giữ được vị ngon truyền thống và dần trở thành món đặc sản Phú Thọ nổi tiếng gần xa.
Cần lưu ý trước tình hình thời tiết để đảm bảo an toàn và có trải nghiệm tốt nhất.
Mua quà lưu niệm khi đi du lịch Phú Thọ du khách nên tham khảo giá trước để so sánh, tránh tình trạng bị “nói thách”.
Nên tìm đến những địa chỉ chính gốc để thưởng thức các món đặc sản của Phú Thọ.
Mang theo trang phục phù hợp với thời tiết. Mặc quần áo đơn giản, lịch sự khi đến tham quan những nơi như đình, chùa.
Nên đặt phòng trước khoảng 1 tuần để lịch trình nghỉ ngơi, di chuyển được thuận lợi, suôn sẻ.